Trong lịch sử nước
ta, triều Lý (1010-1225) là triều đại cường thịnh về quân sự, vững vàng về
chính trị và rực rỡ về văn học. Mở đầu cho nền văn học viết, thơ văn đời Lý
truyền lại được đến nay phần lớn chỉ ghi lại trong Thiền Uyển tập anh
(1), tập sách do Thiền sư Kim Sơn thuộc Thiền phái Trúc lâm (2) viết
vào năm 1337, đời Trần nhưng lại chủ yếu ghi hành trạng của các tăng sĩ đời
Lý thuộc 03 dòng Thiền: Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu chi và Huệ phái
Thiền sư Thảo Đường.
Các cao tăng đời Lý
học rộng, tinh thông Phật pháp lại giỏi Hán học nên được triều đình kính nể.
Đạo Phật được tôn vinh nên nhiều người muốn tìm học triết lý Phật giáo. Ngoài
việc thuyết giảng, các nhà sư còn dùng “kệ”, một thể thơ nhà Phật nhằm
truyền đạt những ý cao siêu uyên áo của Phật pháp bằng những hình ảnh, những
câu thơ ngắn gọn sinh động mà dễ hiểu.
Thiền Uyển tập anh chép lại nhiều bài kệ (3) nhưng nổi
bật nhất có bài sau đây của Đại sư Mãn Giác :
Xuân khứ bách hoa
lạc
Xuân đáo bách hoa
khai
Sự trục nhãn tiền
quá
Lão tòng đầu thượng
lai
Mạc vị xuân tàn hoa
lạc tận
Đình tiền tạc dạ
nhất chi mai
“NHẤT CHI MAI” LÀ “MỘT CÀNH MAI” HAY “MỘT CÀNH MƠ” ?
Bài kệ chỉ có 6 câu, không có đầu đề;
Hoàng Xuân Hãn đã dịch ra quốc ngữ như sau:
“Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân lại nở trăm hoa.
Trước mắt sự đời thoảng,
Trên đầu hiện tuổi già.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Ngoài sân đêm trước một cành mơ. ”
Đọc bản dịch thơ của Hoàng Xuân Hãn, có người lấy làm lạ bởi sao câu cuối
lại dịch : “một cành mơ”. Đáng ra chữ “nhất chi mai” phải dịch
là “một cành mai ” ?.
Quả vậy, từ trước đến nay nhiều người vốn đã rất quen với bản dịch của
Ngô Tất Tố :
Xuân ruổi trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước một nhành mai.
Cũng như nhiều bản dịch khác, Ngô Tất tố giữ nguyên chữ mai trong
nguyên tác. Thật ra thì trong chữ Hán 梅 (mai) là cây mơ. Cây mơ ở Trung Quốc có nhiều, là loại cây
ăn quả có hoa đẹp màu trắng, có khi hơi ửng hồng hoặc đỏ. Riêng nước ta, mơ
có nhiều ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là ở vùng rừng núi động Hương Tích.
Ở Hương Tích, Nguyễn Bính đã từng tả “Thấp thoáng rừng mơ - cô hái mơ”
và Chu Mạnh Trinh cũng đã viết :
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;
Lửng lờ khe Yến cá
nghe kinh…”.
Mơ mọc thành rừng. Rừng
mai đây chính là rừng mơ chớ không phải là rừng mai vàng
như nhiều người lầm tưởng.
Thật vậy, vì
điều kiện thổ nhưỡng, hoàng mai tức là cây mai vàng nở hoa vào dịp tết
âm lịch chỉ có từ Quảng Trị trở vào. Lãnh thổ nước ta vào thế kỉ XI lại
chỉ mới đến chân đèo Ngang cho nên vào thời điểm ấy, xem như nước ta chưa thể
có hoàng mai mà chỉ có hoa mơ… và hoa mơ trong thơ xưa
vẫn gọi là hoa mai.
Hồng Đức quốc âm thi
tập của Lê Thánh Tông
có bài thơ Hoa mai :
“…Hoa bạc phau phau
xâm khí tuyết,
Chồi xanh êu ếu lạt hơi may”
Sắc hoa bạc phau
phau ở câu thơ chính là sắc trắng của hoa mơ.
Vậy mai trong
lời thơ của Mãn Giác chính là cây mơ. “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
dịch là “Ngoài sân đêm trước một cành mơ” là đúng.
Một lí do nữa để lí
giải:
Kệ của Thiền Tông khác với thơ nghệ thuật. Thơ
nghệ thuật có thể tưởng tượng nên hình ảnh mà đưa vào thơ miễn là hợp lí và
giàu chất thẩm mĩ; thậm chí ở thơ cổ điển, tả sự việc theo cách ước lệ thì có
khi không có lá ngô đồng rụng, chẳng thấy có tuyết rơi …mà nhà
thơ vẫn có thể tưởng nên cảnh thu với “giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”,
tả mùa đông với tuyết phủ mơ màng… Kệ của Thiền Tông thì không phải
như thế. Mọi việc, mọi vật trong kệ phải là thực tế nhãn tiền -
vì vậy khi hoàng mai là loài hoa vốn không có ở nước ta vào thế kỉ XI
thì chẳng thể nào Mãn Giác lại có thể đưa cành mai vàng rực rỡ ấy vào thơ
được; chỉ có thể ở đây : một cành mơ, một thực tế cụ thể làm phương
tiện cho trực giác.
Cành hoa mơ được Mãn Giác đưa vào bài kệ cũng do một
dụng ý khác nữa là gợi cho người nghe nhớ lại truyền thuyết "Niêm hoa
vi tiếu" của Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu;
Sách “Tông môn
tạp lục” đời Tống (960-1127) có kể lại câu chuyện:
Phạn Vương đến Linh
Sơn hiến Phật cành hoa “Ba la” và thỉnh Phật thuyết pháp. Thế Tôn đăng tòa
đưa cành hoa lên cho mọi người xem; tất thảy đều không hiểu ngài muốn nói gì,
đều lặng thinh, chỉ có Kim Sắc Đầu Đà Ca Diếp tươi nét mặt và mỉm cười. Thế
Tôn liền nói: Ta đã có Chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm, Thực tướng vô
tướng, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp…
Theo Thiền Tông,
Phật im lặng đưa lên một cành hoa là cách "Dĩ tâm truyền tâm" và
Ca Diếp đã đốn ngộ được chân lí.
MỘT LỜI THƠ NÓI ĐƯỢC
CẢ TƯ TƯỞNG THIỀN TÔNG
Đạo Phật từ Trung
Hoa truyền sang ta từ đời nhà Đinh, đến đời Tiền Lê đã phát triển mạnh. Đời
Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh có tiếng là một nhà tiên tri và rất được
triều đình kính trọng. Sách Thiền Uyển tập anh chép: “năm Thiên
Phúc thứ I (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta đóng
quân tại Cương giáp, Lạng sơn. Vua mời sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi,
sư đáp “Trong vòng 3, 7 ngày, giặc phải lui”. Sau quả nhiên như thế.
Đến khi vua muốn
đánh Chiêm Thành, việc bàn định chưa dứt khoát, sư tâu “Xin mau cất binh, nếu
không ắt mất cơ hội”. Sau đánh quả nhiên thắng trận.”
Sang đến đời Lý, vua
rất tôn sùng đạo Phật. Vua Lý Nhân Tông và Thái hậu Ỷ Lan rất mộ đạo Phật,
thường mời các nhà sư nổi tiếng như Thông Biện, Mãn Giác, Chân Không, Giác
Hải, Không Lộ vào nội cung để giảng kinh và đàm đạo. Các cao tăng này đều
thuộc Thiền Tông là tông phái của Phật giáo Đại thừa. Thiền Tông không dùng
nghi thức tôn giáo và các lí luận rườm rà về giáo pháp; chủ trương không phân
tích chi li triết lí Phật giáo như các tông phái khác mà đề cao việc tìm đến
chân lí bằng trực giác và dùng phương pháp toạ thiền để kiến tính.
Trực giác là con đường ngắn nhất để đạt đạo đồng thời cũng là con đường khó
nhất.
Các vương hầu đời Lý
cũng quý trọng các Thiền sư: Lương Nhậm Văn, Lý Thường Kiệt, Vương Tại, Đoàn
Văn Liệm, Phụng Càn Vương, Thiên Cực Công chúa… đều thường giao thiệp mật
thiết với các cao tăng. Nhiều vị thiền sư lại là con cháu vua, hoàng hậu hay
các đại thần nên có vị trí chính trị cao. Riêng Thiền sư Mãn Giác được vua Lý
Nhân Tông và Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu thỉnh về trụ trì tại chùa Giác Nguyên bên
cạnh cung Cảnh Hưng. Ðến khi Sư viên tịch, vua kính lễ rất hậu, các công
khanh đều tiễn đưa, làm lễ hỏa táng, thu xá lợi, xây tháp thờ tại chùa Sùng
Nghiêm (làng An Cách). Mãn Giác là tên hiệu do Vua Lý Nhân Tông ban
cho sau lễ hoả táng.
Sư Mãn Giác (4) là
đệ tử chân truyền của Thiền sư Quảng Trí và là lãnh tụ pháp môn của dòng
Thiền Vô Ngôn Thông, thuộc đời thứ 8.
Vô ngôn thông. “Không cần nói mà đạt đạo” là tôn
chỉ của đạo Thiền. Không thuyết lí dài dòng; không nói nhiều, không kiến
chấp, không ngộ nhận... chỉ lặng lẽ xem cuộc tuần hoàn: Xuân qua trăm hoa
rụng/ xuân đến trăm hoa nở/ việc đời qua trước mắt/ tuổi già đến trên
đầu…bài kệ chỉ nêu sự việc làm phương tiện truyền đạt ý : Sự việc trước mắt là cái
tất định của tự nhiên cứ tuần hoàn mà thay đổi.
Người theo Thiền
chấp nhận định luật của tự nhiên, vô ngôn mà phá chấp.
Nắm quy luật; biết
tương lai: chớ nói xuân tàn hoa rụng hết/ đêm qua sân trước - một cành mơ.
Tương lai tận cùng
của Phật pháp cũng như ở đạo Thiền là cõi niết bàn. Trong kiếp luân hồi có
khi hoa tàn rụng cả nhưng cái suy tàn lại khởi đầu cho một tương lai mới.
Cành mơ mới nở là hình tượng vô ngôn của niềm lạc quan vô biên mà tĩnh
tại.
KHÔNG NÊN ĐẶT ĐẦU ĐỀ
CHO BÀI KỆ CỦA MÃN GIÁC THIỀN SƯ
Chúng tăng ghi bài
kệ của Thiền sư Mãn Giác đọc lúc sắp mất và mãi đến 7 thế kỉ sau, Lê Quý Ðôn
mới chép lại và đặt tên: “Cáo tật thị chúng” nghĩa là có bệnh bảo
mọi người (5). Sách vở nay cũng theo đó mà chép. Thật ra đầu đề này đã
phá hết nghĩa sâu xa của bài kệ.
Lê Quý Đôn là nhà
Nho đời Lê-Trịnh. Tư tưởng Nho giáo là tư tưởng nhập thế, cách nhìn
cách nghĩ thường tập trung vào những lẽ được thua ở đời: khi gặp minh chúa
thì nhập thế, giúp đời, khi bất phùng thời thì quay về ẩn dật. Lúc ẩn dật,
nhà Nho thường nhìn việc đời bi quan. Khuất Nguyên tự trầm trên sông Mịch La
cũng vì lẽ bi quan ấy.
Tư tưởng của Nho
giáo và Thiền Tông không gặp nhau và có lẽ vì thế Lê Quý Đôn đã chọn
cho bài thơ đầu đề
“Có bệnh bảo mọi
người”.
Hiểu bài kệ của sư
Mãn Giác thì không nên nói đến chuyện “có bệnh” ở đây. Bài thơ nói “việc
đời qua trước mắt; tuổi già đến trên đầu”…là hoàn toàn không có gì bi
quan. Đã là Thiền sư thì không bi quan trước lẽ tử sinh. Tất cả sự việc xảy
ra trong cuộc sống là hiện tượng. Thiền học dùng hiện tượng làm phương tiện
đốn ngộ. Hãy đọc câu chuyện thiền Nhật Bản “Không nước; không trăng” :
Ni cô Chiyono đã tu
nhiều năm, nhưng chẳng thấu đạt được chân lí. Một đêm, cô gánh nước về tu
viện; vừa đi vừa ngắm ánh trăng rọi xuống mặt nước trong thùng. Bỗng nhiên,
đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng
trăng tan biến - không còn nước, không còn trăng. Chiyono hốt nhiên giác ngộ.
Cô đọc bài kệ:
"Bằng cách này
hay cách khác, tôi đã cố giữ đôi thùng nước,
Mong rằng chiếc đòn gánh dòn yếu kia sẽ không gãy
Bất chợt, giây đứt thùng văng,
Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước;
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì".
Chiyono đốn ngộ được
là nhờ trực giác cảm nhận từ cái rỗng không này. Những kiến chấp qua
bao nhiêu năm tháng tu hành của cô không sánh được với trực giác nảy sinh từ
cảm nhận nhất thời.
So sánh bài kệ của
Mãn Giác với “Không nước, không trăng” ta thấy có điểm giống:
cả hai cùng trải qua thực tế nhãn tiền. Mãn Giác đại sư nhìn việc
đời qua trước mắt/ tuổi già đến trên đầu là giống với ni cô Chiyono nhìn
ánh trăng soi qua mặt nước trong thùng… rồi cái hiển hiện ấy bỗng tan biến
mất - cái còn lại chỉ là “không”.
Bài kệ của Mãn Giác
và câu chuyện Thiền Nhật Bản đều muốn truyền đạt chân lí thông qua trực giác.
Mãn Giác muốn mọi người cảm nhận bằng trực giác từ cành hoa mơ; Chiyono thì
dùng cái “không” - Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong
nước”. Đây là những phương tiện của Thiền giúp người đời vượt qua kiến
chấp để đến với chân lí, đến với cái “không” tĩnh tại.
Vậy thì ở bài kệ của
Mãn Giác: việc hoa tàn, hoa nở… việc chuyện đời trôi, tuổi già đến…,
tất cả đều là vô thường, không có gì đáng bận tâm mà ngược lại là
phương tiện của đốn ngộ.
Kệ cũng là kinh; kệ có khi dùng nhật
tụng. Thiền Tông đọc kệ để ngộ đạo. Bài kệ của Mãn Giác nhằm
giúp ngộ đạo bằng con đường trực giác vậy sao lại có thể truyền đạt cảm nhận
bi quan “có bệnh” được? Cảm nhận này là không phù hợp với tinh thần
lạc quan, yên nhiên của Thiền Tông.
Các bài kệ của Thiền Tông đều không đề vậy tốt nhất là đừng cố
tìm lấy một đầu đề cho bài kệ của Mãn Giác.
|