Vào những năm đầu thập niên 1980, sau khi hòa bình lập
lại trên toàn lãnh thổ Việt nam, một làn sóng di dân đi “Kinh tế mới” ồ ạt từ
Miền Trung Việt vào định cư tại các tỉnh Cao nguyên Trung phần và vùng Đông Nam
bộ, đặc biệt là tỉnh Đồng Nai trong đó “khu Bình Trị Thiên” được xem như là
khúc ruột Miền Trung thu nhỏ tại vùng kinh tế nghèo Gia Rây. Lúc đó đều là dân
kinh tế mới nhưng mỗi gia đình mỗi hoàn cảnh khác nhau, họ đến đây lập nghiệp với
hầu hết là hai bàn tay trắng nơi đất khách quê người, nhưng đó là cơ duyên để
những người di dân đến với nhau trong nỗi cơ cực của thời cuộc và họ đến với
nhau bằng cả tấm lòng của một người đi kinh tế mới.
Nhờ
mưa thuận gió hòa chứ không như mảnh đất miền Trung với thời tiết khắc nghiệt,
cực đoan và với sự khó khăn bao đời đã thấm sâu trong tiềm thức của mỗi người
di cư đã làm cho họ ngày càng nhận chân giá trị cuộc sống, vì thế ngoài đời sống
sinh hoạt sản xuất, mọi người dần đến với nhau bằng tinh thần và lý tưởng để rồi
cùng nhau xây dựng nên một “nền văn hóa mới” trên tinh thần Đạo Phật.
Chính
vì lẽ đó, gia đình Phật tử (GĐPT) Khánh Hạnh ra đời nhằm hun đúc tinh thần “ly
hương bất ly tổ” của những người xa xứ và cũng là đời sống tinh thần của người
dân nơi miền quê hẻo lánh, nghèo nàn, đơn điệu, nơi mà chỉ có những ánh đèn dầu
heo hắt đó đây trong những ngôi nhà tranh vách lá mà người ta có thể nhìn xuyên
thấy được.
GĐPT
Khánh Hạnh được chào đời tại một vùng kinh tế mới nghèo xứ Gia Rây, lúc bấy giờ
kết hợp với một số người dân địa phương cũng là những người tha phương trước
1975 khắp các vùng quê quy tụ về. Chính vì thế phong tục bất đồng, nhân sinh quan mỗi miền mỗi
khác, tình tự quê hương còn cục bộ chưa bóc bỏ hết, chỉ có một điều làm cho mọi
người nhất là người Phật tử sống chan hòa bên nhau đó là lý tưởng phụng sự Đạo
Pháp.
I. Bối cảnh lịch sử
Lúc
bấy giờ kinh tế địa phương chủ yếu là nông nghiệp, người dân kinh tế mới phải
phá rừng làm rẫy, người thì làm thuê cuốc mướn, người thì đốn gỗ làm than, … cuộc
sống nghèo nàn cơ cục và đơn điệu cứ lặp đi lặp lại nơi vùng kinh tế nghèo này
ngày này qua tháng khác và nhiều khi gặp
cảnh lam sơn chướng khí, trái gió trở trời, bệnh tật, điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội đối với tín ngưỡng lại gặp những khó khăn nhất định.
Nhưng
với khát khao và tinh thần Đạo pháp trong một số bác một số các anh chị lúc bấy
giờ đã hóa giải mọi trở ngại để sau những giờ lao động vất vả, người Phật tử đã
dò dẫm tìm về chùa Long Quang, chùa Xuân Thành để chiêm bái, tham gia công tác
Phật sự. Tuy nhiên,
khi đến nơi đây họ lại gặp những khó khăn về phong tục tập quán và tư tưởng địa
phương cục bộ.
Trước
thực tế đau lòng đó, để phục vụ cho lý tưởng hoằng dương chánh Pháp, một số Phật
tử trung kiên quy tụ lại dưới danh nghĩa “Anh em đồng hương, kết nghĩa” gồm các
đạo hữu Phước Định – Dương Văn Chỉnh, Phước Quang – Hoàng Giữ Thuận, huynh trưởng
cấp Tập Tâm Đề - Phan Quang Lớn, Tâm Hiên – Hoàng Công Cổn, huynh trưởng Phật tử
hướng đạo Tâm Việt – Phan Quang Trai (Phan Thiên Vũ), họ tình nguyện làm công
tác Phật sự như cầu an, cầu siêu, thăm viếng, ủy lạo, động viên Phật tử trung kiên đóng bàn, tôn tượng. Tổ
chức các ngày lễ lớn như: Phật Đản, Xuất gia, Thành đạo, Vu lan, … tại tư gia đạo
hữu Phước Định – Dương Văn Chỉnh, về sau nơi đây trở thành nơi hội hop của anh chị em Phật tử.
Từ
đó, niềm tin của Phật tử tại địa phương càng ngày càng dâng cao, Phật tử tham
gia công tác Phật sự ngày càng nhiều, phong trào an vị Phật lan rộng khắp cả
khu vực, tiếng chuông, tiếng mõ cũng từ đó vang vọng khắp nơi từ trong những
chiếc lều tranh đơn sơ gọn gàng sạch sẽ như gợi nhớ, gợi thương đã cảnh tĩnh,
réo gọi những người con Phật lạc lỏng tìm về.
II. Giai đoạn hình thành và sinh hoạt (1982 – 1983)
Đây
là giai đoạn kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều khó khăn, còn những định kiến
về tôn giáo và các tổ chức phi Chính phủ đã làm ảnh hưởng đến việc thành lập một
tổ chức quy tụ nhiều người không được công nhận. Tuy nhiên, sau nhiều lần họp
bàn về công tác tổ chức, danh xưng cho Giáo hội và GĐPT. Các đạo hữu Dương Văn
Chỉnh, Hoàng Giữ Thuận, Hoàng Công Cổn, Nguyễn Trí Nhạn, … nhất trí giao trách
nhiệm cho huynh trưởng Tâm Đề - Phan Quang Lớn vận động thành lập gia đinh.
Ngày
04 tháng 03 năm 1982 (tức ngày 09 tháng 02 năm Nhâm tuất) một cuộc họp bất thường
được triệu tập dưới sự chỉ đạo của đạo hữu Phước Định – Dương Văn Chỉnh, thư ký
Nguyên Nghị - Phan Ngọc Phách, thuyết trình viên Tâm Đề - Phan Quang Lớn cùng với
sự tham dự của khoảng 20 Phật tử tâm huyết, cuộc họp đi đến nhận định – Tình
hình khó khăn, nguy hiểm về mọi mặt, nhưng đây là công tác thuận hóa xã hội nên
nhất tâm quyết định bốn vấn đề lớn
1.
Thành lập khuôn giáo hội;
2.
Thành lập gia đình Phật tử;
3.
Khánh Hạnh là danh xưng cho Giáo hội và gia đình;
4.
Đề cử huynh trưởng Tâm Đề - Phan Quang Lớn giữ chức Gia trưởng.
Cuộc
họp thống nhất Danh xưng Khánh Hạnh với dụng ý dung hòa và cầu thị mang 3 ý nghĩa:
-
Tri ân, noi gương Tổ sư;
-
Đoàn kết Phật tử hai Miền;
- Ly hương bất ly Tổ.
Khánh Hạnh được ghép từ tên của hai vị cao Tăng là Ngài Vạn Hạnh
và Ngài Khánh Hòa
Ngài Vạn Hạnh Thiền sư là một
quốc sư Triều Lê – Lý, Ngài lấy tư tưởng của Phật giáo mà trị quốc bằng việc
đưa Lý Công Uẩn lên ngôi mà Lý Công Uẩn là người được tu học từ trong chùa, lúc
bấy giờ đất nước hưng thịnh đạo Phật phát triển.
-
Ngài Khánh Hòa – Khánh Hòa Hòa thượng là một vị cao tăng
cận đại có công rất lớn với đạo Pháp ở Miền Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất dùng tên hai ngài đặt tên cho hai miền Phật giáo.
·
Miền Vạn Hạnh – Miền trung Trung nguyên, Trung phần
·
Miền Khánh Hòa – Miền đông Nam phần
Sau
cuộc họp đêm 09/02 Nhâm Tuất (tức 04/03/1982) anh Tâm Đề triệu tập một cuộc họp
chuyên ngành để bầu ban huynh trưởng, gồm:
* Gia trưởng kiêm Liên đoàn trưởng Nam Tâm
Đề - Phan Quang Lớn.
* Liên đoàn trưởng nữ: Chị Nguyễn Thị Thủy
– Cấp tập Quảng Trị
* Thư ký kiêm đoàn trưởng Oanh vũ nam Nguyên Nghị - Phan Ngọc Phách
* Thủ quỹ: Tâm Tuyết – Đỗ Thị Phương Lan
* Đoàn trưởng thiếu nam: Tâm Việt – Phan
Quang Trai (HT Q. Trị)
* Đoàn phó thiếu nam: Tâm
Hiên – Hoàng Công Cổn
* Đoàn trưởng thiếu nữ: Chị Nguyễn Thị Bê
* Đoàn phó thiếu nữ: Anh Nguyễn Trí Nhạn
* Đoàn trưởng Oanh vũ nữ: Chị Huỳnh Thị Kim Anh
* Phụ trách đoàn chim non: Anh Nguyễn Thành Công
Ngày
15 tháng 04 năm Nhâm Tuất (1982) được sự công nhận thành lập của đại diện giáo
hội Phật giáo huyện Xuân Lộc Đại đức Thích Huệ Mẫn và anh trưởng ban chấp hành
GĐPT Long Khánh – Nguyễn Thế Hoa, gia đình đi vào sinh hoạt với tâm thế công
khai với đầy đủ hệ thống gia đình như đoàn Thanh nam, đoàn Thiếu nam, đoàn Thiếu
nữ, đoàn Oanh vũ nam, đoàn Oanh vũ nữ và đoàn Chim non, từ đó người Phật tử địa
phương đặc biệt là giới trẻ lúc bấy giờ được xây dựng, khắc họa lên một quan điểm, một con người mới lấy tư
tưởng và quan điểm nhân sinh Phật giáo làm chủ đạo để hướng đến giá trị cuộc sống
đích thực nơi vùng quê nghèo hẻo lánh này.
Cũng
trong giai đoạn phôi thai này vấn đề nhân sự có chuyên môn là việc làm bức thiết
và khó khăn, chính vì thế ngoài việc hướng dẫn đoàn sinh đi đúng chương trình
và nội quy của GĐPT Việt Nam ban chấp hành còn tổ chức các khóa huấn luyện cấp
tốc Đội – Chúng trưởng, chăn đàn Tuyết Sơn. Bồi dưỡng tu bổ Phật pháp cho đoàn
sinh chuẩn bị tham dự các kỳ thi vượt bậc do Ban hướng dẫn GĐPT Long Khánh tổ
chức, tham gia sinh hoạt với giáo hội. Qua đó, phần nào đã thúc đẩy sự lớn mạnh
của GĐPT Khánh Hạnh và tư tưởng Phật giáo ngày một thấm nhuần trong ý thức hệ của
mỗi cá nhân người con Phật, đời sống tinh thần và xã hội ngày một tốt đẹp hơn,
gắn bó hơn và nhân văn hơn trong quan điểm nhân sinh Phật giáo.
III. Giai đoạn tạm ngưng sinh hoạt (1984 – 1986)
Quá
trình nổ lực mang lại một diện mạo mới và đời sống tinh thần dựa trên nền tảng
học tập và sinh hoạt mang tính xã hội cao đối với vùng đất kinh tế mới – vùng đất
“hứa” của di dân, nơi mà mỗi năm chỉ vài ba lần các đoàn nghệ thuật cải lương,
các đoàn chiếu phim lưu động về phục vụ quần chúng có thu phí đã không làm thõa mãn được đời sống
tinh thần của cư dân vùng kinh tế mới nghèo nàn này, ngoại trừ những chiều chủ
nhật hàng tuần những người con Phật được đến chùa lễ Phật, sinh hoạt, tu học,
những con chiên ngoan đạo Catholic được đến cầu nguyện tại các nhà thờ, thì cuộc
sống còn lại trở nên tẻ nhạt, vô vị.
Đầu
năm 1984, tình hình chính trị trong nước trở nên rối reng, đặc biệt đối với tổ
chức Giáo hội Phật giáo. Chính vì thế, việc sinh hoạt của gia đình gặp nhiều
khó khăn, để duy trì được hoạt động tu tập, sinh hoạt Phật pháp ban huynh trưởng
quyết định chia nhỏ gia đình thành những đội chúng sinh hoạt thậm chí chuyển một
số buổi sinh hoạt vào ban đêm, sinh hoạt nhỏ lẻ tại tư gia các đạo hữu trong
khuôn hội. Tuy nhiên,
việc sinh hoạt đơn lẽ đó cũng không được bao lâu thì phải tạm ngưng.
Giai
đoạn này giáo hội cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt về mặt tài chính. Vì thế,
nên sau quyết định GĐPT ngưng sinh hoạt một số huynh trưởng lớn tuổi chuyển
sang tham gia sinh hoạt với giáo hội, nhưng chủ yếu là vào các đêm mười bốn, rằm,
ba mươi và mồng một, chỉ những ngày lễ lớn mới có sự tham gia của các em đoàn
sinh.
IV. Giai đoạn tái sinh hoạt (1987 – 1990)
Năm
1986, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, đại hội bầu ông Nguyễn Văn Linh vào
chức Tổng bí thư, tình hình kinh tế, chính trị trở nên ổn định và đất nước thay
đổi rõ rệt về mọi mặt như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo tín ngưỡng ngày càng
được khởi sắc. Trong điều kiện thuận lợi đó, một số huynh trưởng được cử đi dự
các khóa Vạn Hạnh, Huyền Trang, A Dục, Lộc Uyển do Ban huynh trưởng Trung ương
tổ chức vào ngày 01 tháng 06 năm 1987 tại chùa Long Thọ thị trấn Xuân Lộc (nay
là thị xã Long Khánh)
Đến
đầu năm 1988, sau khi tốt nghiệp các khóa huấn luyện trên, một ban huynh trưởng
mới được thành lập với các thành viên chủ chốt sau:
- Gia trưởng: anh Tâm Chiến –
Hoàng Cảnh Đã
- LĐTrưởng Nam: anh Tâm Việt – Phan Quang Trai
- Thư ký: anh Tâm Đề - Phan Quang Lớn
- Thủ quỹ: anh Tâm Hiên – Hoàng Công Cổn
Các
đoàn do một số huynh trưởng mới dự trại về đảm trách như anh Trần Nghị, Lê Đình
Thuần, Hoàng Công Sinh, Ngô Hữu Vui, Hoàng Phúc, Huỳnh Thị Kim Anh, Lê Thị Thọ,
Nguyễn Đình Yên, Nguyễn Đình Ái, …
Với
cơ cấu mới và đã được huấn luyện cơ bản nhưng ban huynh trưởng mới cũng không
thể vực dậy được GĐPT Khánh Hạnh. Đây là hệ quả tất yếu của thời cuộc, chỉ
trong một thời gian ngắn nhưng việc sinh hoạt có nhiều bế tắc bên cạnh đó là sự
không đồng thuận trong các bác bên giáo hội đã làm mất mát niềm tin nơi phụ
huynh, huynh trưởng và đoàn sinh, làm mất niềm hưng phấn và nhiệt huyết ban đầu
vì sự tin tưởng quá lớn và giáo lý của Đức Phật đã thấm nhuần một phần nào đó
trong suy nghĩ của mỗi người do vậy những biến cố trong giáo hội đã làm cho họ
thất vọng và mất lòng tin.
Ngày
29 tháng 05 năm Kỷ tỵ (1988) để tạo sinh khí mới cho GĐPT Khánh Hạnh, một cuộc
hội ý ngắn được tổ chức tại tư gia đạo hữu Hoàng Giữ Thuận giữa các đạo hữu như
Đạo hữu Nguyễn Đình Viên, Đạo hữu Hoàng Cảnh Đã, Đạo hữu Hoàng Giữ Thuận, Đạo hữu
Hoàng Công Cổn. Cuộc hội ý đưa ra 2 vấn đề
1.
Phải cải tổ sâu rộng cơ cấu ban huynh trưởng mới
2.
Vận động triệu tập một cuộc họp giữa giáo hội và GĐPT
Khánh Hạnh để thông qua việc tái tổ chức gia đình.
Ngày
23/07/1988 nhằm ngày 10/06/ Kỷ tỵ một cuộc họp bất thường được tổ chức tại tư thất đạo hữu
Nguyễn Đình Viên, toàn thể cuộc họp thống nhất và thông qua phương án cải cách,
tổ chức cơ cấu ban huynh trưởng mà trước đó cuộc hội ý đã đưa ra. Cũng trong cuộc
họp này hội nghị ra quyết định triệu tập một cuộc họp mở rộng giữa Giáo hội và
GĐPT để bầu lại Ban đại diện Giáo hội và đề cử gia trưởng vào đêm 25/07/1988 cuộc
họp được giao cho đạo hữu Đỗ Văn Đãi triệu tập.
Để
hội nghị ngày 25/07/1988 diễn ra thành công, đêm 24/07/1988 cuộc họp sơ bộ về dự
kiến nhân sự được tổ chức tại tư gia đạo hữu Đỗ Văn Đãi.
Ngày
25/07/1988 nhằm ngày 12/06/ Kỷ tỵ một cuộc họp mở rộng như dự định được triệu tập
tại tư thất đạo hữu Hoàng Văn Trì. Tại đây, đạo hữu Đỗ Văn Đãi được đề cử giữ
chức ủy viên thanh niên, cũng xin nói thêm rằng, đạo hữu Đỗ Văn Đãi là người
năng động nhiệt huyết, nhưng vì tính chất giai đoạn và sự hòa hợp giữa giáo hội
và GĐPT nên đạo hữu giữ vai trò nêu trên. Trong cuộc họp này hội nghị vẫn tiếp
tục tín nhiệm bác Tâm Chiến Hoàng Cảnh Đã giữ vai trò gia trưởng GĐPT Khánh Hạnh.
Ngay
sau khi được tín nhiệm tiếp tục giữ chức Gia trưởng, ngày 26/07/1988 cuộc họp bất
thường được triệu tập tại Niệm Phật đường tạm của giáo hội đặt tại tư thất đạo
hữu Chánh Định – Nguyễn Đình Viên dưới sự chủ trì của gia trưởng GĐPT Khánh Hạnh
Tâm Chiến – Hoàng Cảnh Đã, thư ký anh Nguyên Thái – Hoàng Kim Khánh cùng với sự
tham gia đầy đủ của ban đại diện giáo hội
và ban cựu huynh trưởng, bầu ban huynh trưởng mới. Qua đó thành phần ban
huynh trưởng gồm:
-
Gia trưởng: Tâm Chiến – Hoàng Cảnh Đã
-
LĐT Nam: Hoàng Công Sinh
-
LĐT Nữ: Tịnh Dung – Đỗ Thị Gái
-
Thư ký: Nguyên Thái – Hoàng Kim Khánh
-
Thủ quỹ: Diêu Tâm – Nguyễn Thị Phương Ánh
-
ĐT thiếu Nam: anh Viên Thạnh - Ngô Ngọc Long
-
ĐT thiếu nữ: chị Đỗ Thị Gái (kiêm)
-
ĐT Oanh nam: Hoàng Văn Thanh
-
ĐT Oanh nữ: Tịnh Diệu – Phan Lê Thị Bi
và một số huynh trưởng tập sự giữ chức phó
Tuy
nhiên, vì nhu cầu Phật sự bác Gia trưởng Tâm Chiến – Hoàng Cảnh Đã xin từ nhiệm
(bác là ủy viên BHD GĐPT Long Khánh). Ngày 13/12/1988 tức ngày 05/11 Kỷ tỵ đạo
hữu Tâm Định – Đỗ Văn Đãi được đề cử giữ chức gia trưởng thay cho bác Tâm Chiến
– Hoàng Cảnh Đã và được sự nhất trí của Ban hướng dẫn Long Khánh và Ban đại diện
Khánh Hạnh.
Thời
kỳ này bác là người mang đến bước đột phá đem lại diện mạo mới cho GĐPT cũng như
giáo hội Khánh Hạnh, với sự đồng thuận cao giữa giáo hội và gia đình. Từ đây,
gia đình tham gia sát cánh bên cạnh giáo hội xây dựng thành công các hoạt động
tâm linh cũng như tạo ra những hoạt động lành mạnh bổ ích cho thanh niên địa
phương nói chung và người Phật tử địa phương nói riêng, nhờ đó xây dựng được lối
sống đạo đức xã hội lành mạnh, trẻ em yêu thích đến chùa để được học giáo lý Phật
đà và vui chơi trên tinh thần nhân ái sâu sắc, đối với thanh niên họ chí thú
làm ăn hằng đêm họ quầy quần tu học Phật pháp, chủ nhật hàng tuần được gặp gỡ
sinh hoạt trao đổi quan điển nhân sinh trên tinh thần và tư tưởng Phật giáo.
Cũng nhờ đó, chính sức mạnh của tôn giáo đã giúp cho con người nơi đây ngày
càng yêu mến cuộc sống, yêu mến công việc, yêu quê hương mỗi khi rời xa.
Đây
cũng là thời kỳ hoàng kim trong suốt những năm xây dựng và phát triển, được sự
hỗ trợ của giáo hội và sự sâu sắc của anh chị huynh trưởng ngày càng làm cho tổ
chức gia đình ngày càng lớn mạnh, gia đình tiến tới việc xây dựng đoàn quán từ
sự đóng góp công sức của toàn thể Phật tử địa phương kể cả giáo hội, bên cạnh
đó là việc tổ chức các ngày lể lớn hết sức long trọng và được sự quan tâm của
Chính quyền địa phương cũng như Giáo hội Phật giáo huyện Xuân Lộc lúc bấy giờ.
Cũng từ đây gia đình chính thức được mặc đồng phục GĐPT Việt Nam, cờ gia đình
và các cấp hiệu phù hiệu liên quan.
Trong
khí thế phấn khởi đi lên đó, GĐPT Khánh Hạnh đã bỏ ra công sức to lớn từ tất cả
các thành viên của gia đình, với sự nhiệt tình quyên góp của Ban Bảo trợ và sự đóng góp hảo tâm của quý Phật tử gần xa
đã xây dựng một ngôi Đoàn quán khang trang. Ngôi nhà gỗ 3 gian, mái ngói rộng
khoảng 70m2 được Ban huynh
trưởng cao niên về chứng minh và làm lễ đặt đá diễn ra vào ngày rằm tháng 07 năm Kỷ tỵ tức ngày
26/08/1988.
Ngày
28/08/1988, chính thức ra mắt của đoàn thanh nam Phật tử do anh Lê Mậu Triêm
làm đoàn trưởng, anh Nguyễn Trí Nhạn làm đoàn phó.
Đời
sống tinh thần được thoải mái, được tự do hành lễ, tự do tổ chức các nghi thức
giáo hội cũng như các nghi thức GĐPT Việt Nam tại địa phương. Chính vì thế, các
lễ lớn trong năm như Lễ Phật Đản, Lễ Vu lan, các ngày Vía cũng được tổ chức long trọng, đặc
biệt là hai ngày lễ lớn trong năm của Phật giáo, giáo hội, huynh trưởng và đoàn
sinh được tự do tổ chức cắm trại, sinh hoạt suốt ngày đêm, tổ chức các đêm văn
nghệ hát mừng Phật Đản, hát mừng Vu lan trên tinh thần đạo pháp và dân tộc rất
nhân văn đã làm hồi sinh trong con người xa xứ những giá trị nguồn cội trong cộng
đồng người di cư tha phương cầu thực. Đây cũng là giai đoạn mà chính quyền quan
tâm đến các tổ chức tôn giáo nhiều hơn bằng việc cho xây dựng chùa chiền, niệm
phật đường, tịnh thất, … làm cho người dân địa phương cảm thấy được tính ổn định
trên mọi lĩnh vực kể cả kinh tế và chính trị, đó là phần nào góp phần xây dựng
xã hội địa phương ngày càng văn minh văn hóa hơn, lối sống đạo đức xã hội trong
tầng lớp thanh niên ngày càng được bền vững góp phần xây dựng an ninh địa
phương, an toàn xã hội.
Một
phần quan trọng không thể thiếu đối với người Phật tử địa phương đó là tinh thần
tu học Phật pháp và các trại huấn luyện thế hệ kế thừa của GĐPT Việt nam nói
chung và GĐPT Long Khánh nói riêng ngày càng được trải
dài rộng khắp. Các khóa trại huấn luyện được tổ chức hằng năm để bổ sung nguồn
lực cũng như đáp ứng sự phát triển của GĐPT tại Xuân Lộc lúc bấy giờ như các
khóa học bậc Kiên, bậc Trì, các khóa trại huấn luyện huynh trưởng Lộc Uyển, A Dục,
… được tổ chức với số lượng tham gia lớn tại chùa Long Thọ và một số địa phương
khác. Qua đó cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của tổ chức GĐPT và sự quan tâm của
chính quyền đến các tổ chức tôn giáo ngày càng sâu rộng hơn, tự do hơn.
Với
sinh khí đó, GĐPT Khánh Hạnh đã không ngừng vươn lên khi mà một số lượng lớn
các anh chị tham dự khóa trại Lộc Uyển đầu tiên năm 1989 trở về địa phương thì
“chất và lượng” cũng được cải thiện, tính khoa học trong huấn luyện và truyền đạt
Phật pháp có phần khởi sắc. Vì thế lúc hưng thịnh gia đình sinh hoạt lên đến
hơn 200 đoàn sinh, do đó những buổi chiều chủ nhật trở thành những ngày hội của
Phật tử địa phương.
V. Biến cố đối với Giáo hội và GĐPT Khánh Hạnh tự suy thoái
(1990 – 1992)
Trên
tinh thần phụng sự đạo pháp, nhưng một số cá nhân đã danh nghĩa GĐPT hoặc giáo
hội đã có những sự sắp đặt riêng không những làm xáo trộn nếp sống sinh hoạt và
tu học Phật pháp của quý bác bên giáo hội mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến việc tu
học và sinh hoạt của GĐPT Khánh Hạnh. Từ đây nảy sinh một số bất đồng trong
giáo hội và trong gia đình, vì thế ngày 01/09/1990 tức ngày 13/07/ Canh Ngọ đạo
hữu Chánh Định – Nguyễn Đình Viên được tập thể gia đình bầu lên giữ chức vụ gia
trưởng thay cho đạo hữu Đỗ Văn Đãi, anh Tâm Đới – Phan Đăng Viện được đề cử giữ
chức vụ Liên đoàn trưởng Nam thay anh Hoàng Công Sinh về tăng cường nhân sự
vùng. Công việc chưa ổn định thì đạo hữu Gia trưởng Chánh Định – Nguyễn Đình
Viên lâm bệnh qua đời tại Sài Gòn vào ngày 22/07/Canh ngọ tức chỉ 10 ngày sau
khi nhậm chức, lễ hỏa táng tại Nghĩa Trang Bình Hưng Hòa, sau đó hài cốt một phần
được đưa về thờ tự tại chùa Phật Bảo quận 11. TP. Hồ Chí Minh, phần còn lại được
mang về phụng thờ tại tư thất đến nay vẫn còn tại địa phương. Ngày 16/09/1990 tức
ngày 28/07/Canh ngọ ban hướng dẫn Long Khánh, ban đại diện vùng Kalinga và GĐPT
Khánh Hạnh tổ chức lễ tưởng niệm cố gia trưởng Nguyễn Đình Viên rất trọng thể tại
tư gia với sự tham dự của hầu hết của các đơn vị trong vùng. Trong dịp đó bác
được truy thăng cấp Tập.
Trải
qua gần 10 năm thăng trầm trong việc xây dựng và tổ chức GĐPT tại địa phương là
một nổ lực tâm huyết đối với một số đạo hữu đã dày công vun đắp, là cứu cánh của
những người tha hương cầu thực mong cầu có được đời sống tâm linh truyền đạt
cho thế hệ sau như một sự “truyền giáo” về nhân sinh quan phật giáo trong lòng
giới trẻ đang còn nghèo hèn cả về vật chất lẫn tinh thần. Chính vì thế, việc ra
đi vĩnh viễn của Tân Cố gia trưởng Chánh Định – Nguyễn Đình Viên là một mất mát
to lớn đối với Phật tử địa phương và cũng là một cú sốc lớn đối với những ai am
hiểu về tình hình phật giáo địa phương lúc bấy giờ. Việc ra đi của bác chiếu
theo luật vô thường của đạo Phật thì đó là tính chất nhất quán của quan điểm Phật
giáo, đó là lẽ thường sinh diệt trong vũ trụ này. Nhưng đứng về mặt khoa học việc
ra đi của bác được thể hiện một sự bức bách không dám so sánh với Bồ Tát Thích
Quảng Đức người mà do chính quyền Sài Gòn cũ tác động dẫn đến vụ tự thiêu năm
1963, nhưng chính sự hành xử thiếu am hiểu về tinh thần đạo pháp của Phật tử địa
phương chính là yếu tố đẩy đến cái chết đáng tiệc của cố gia trưởng Nguyễn Đình
Viên
Sự
tín nhiệm của tập thể giáo hội và huynh trưởng Khánh Hạnh, sự uy tín của bác cố
gia trưởng đã tác động lên sự từ nhiệm của Cựu gia trưởng Tâm Định – Đỗ Văn
Đãi. Nhưng thay vì nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía BHD Long Khánh thì một
việc làm thiếu tinh thần đạo pháp, thiếu tinh thần xây dựng của BHD Long Khánh
là điều động anh Hoàng Công Sinh với lý do” tăng cường nhân sự vùng” đã làm bức
bách thêm tinh thần của những người có trách nhiêm xây dựng GĐPT địa phương trở
thành một nơi sinh hoạt tu học theo định hướng của BHD Long Khánh nói riêng và
GĐPT Việt Nam lúc bấy giờ nói chung, điều đó được xem như là một sự trở ngại, một
sự trừng phạt khi giáo hội Khánh Hạnh đưa một người của giáo hội lên thay thế một
huynh trưởng trực thuộc BHD Long Khánh.
Tuy
vây, giáo hội và những anh chị huynh trưởng tâm huyết cố gắng vượt qua những
khó khăn, vượt qua cú sốc lớn để xây dựng lại gia đình vốn non trẻ nay lại yếu
kém hơn. Trong khó khăn đó một ban huynh trưởng mới được bầu lại như sau:
-
Quyền gia trưởng: Tâm Đới
– Phan Đăng Viện
-
LĐT Nam: Tâm Đới – Phan Đăng Viện
-
LĐT Nữ: Tịnh Dung – Đỗ Thị Gái
-
Thư ký: Nguyên Thái – Hoàng Kim Khánh
-
Thủ quỹ: Quảng Tâm - Đinh Thị Huệ
-
ĐT thanh nam: anh Lê Mậu Triêm
-
ĐT Thiếu Nam: anh Nguyễn
Đình Ái
-
ĐP. Thiếu Nam: Viên Lạc – Ngô Hữu Vui, Hoàng Cảnh Thạnh
-
ĐT Thiếu nữ: Diệu Tâm –
Nguyễn Thị Phương Ánh
-
ĐP. Thiếu nữ: Tịnh
Diệu - Phan Lê Thị Bi
-
ĐT Oanh nam: Viên Phước – Nguyễn Văn Nghĩa
-
Đoàn Phó: Nguyên Nghĩa – Hoàng Kim Hòa, anh Viên Thạnh – Ngô Ngọc
Long
-
ĐT Oanh nữ: Quảng Mộc –
Đinh Thị Lê
-
Đoàn phó: Quảng Đông – Nguyễn Vũ Yến Thu, chị Võ Thị Hà
-
Phụ trách chim non: Quảng Tâm – Đinh Thị Huệ, Phạm Thị Thọ
Nhân sự nhìn chung lúc bấy giờ là do sự kế thừa của thế hệ đi trước, đó
là tính tất yếu. Với lực lượng nhân sự này, tính kế thừa có định hướng rõ ràng,
sự chuyển giao thế hệ này là một sự phát triển tốt. Thế nhưng, gia đình Khánh Hạnh
không thể phát triển tốt hơn khi một số huynh trưởng nòng cốt lần lượt ra đi,
người ra đi vì nhu cầu kinh tế, việc làm, người từ bỏ vì sự bất đồng nảy sinh
giữa các nhóm tranh giành ảnh hưởng trong giáo hội đã làm ghẻ lạnh Khánh Hạnh một
thời gian dài và còn mãi về sau