
Thế danh: Hoàng Giữ Thuận
Pháp danh: Nguyên Hòa
Pháp tự: Phước Quang
Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1941 (Tân Tỵ)
Ông được sinh ra tại làng Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thuần nông – Thân phụ là cụ Hoàng Công (1913 – 1981) và thân mẫu là cụ Đỗ Thị Cháu (1919 – 2012), vốn là gia đình có truyền thống theo Phật giáo, là tỷ muội Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, tên thật là Đỗ Xuân Hàn. Được sự trợ duyên, năm 1957 người theo chân Hòa Thượng vào ở tại chùa Hải Đức (Phật học viện Trung phần) Nha Trang để đi học. Năm 1958 thọ Sadi giới, năm 1968 bỏ không thọ Đại giới.
Năm 1969 - 1970 học Đệ nhất trường Võ Tánh Nha Trang, thi tú tài II. Cuối năm trình diện đi học sĩ quan trường sĩ quan Thủ Đức. Năm 1971 ra trường chọn về Tiêu khu Quảng Trị.
Sau giải phóng, 1975, bị bắt đi học tập cải tạo tại Cồn Tiên, Quảng Trị, cấp bậc Trung úy.
Năm 1977 được phóng thích về quê tại làng Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Tháng 12 năm 1980, di cư vào vùng kinh tế mới (di cư tự do) tại ấp Trung Lương, xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai cho đến nay.
Ngày 20 tháng 8 năm 2010 (Nhằm ngày 11 tháng 7 năm Canh Dần) người đã trút hơi thở cuối cùng sau thời gian lâm trọng bệnh, hưởng thọ 70 tuổi.
Đôi nét về cuộc đời của tăng sinh Hoàng Giữ Thuận.
CUỘC ĐỜI HỌC TĂNG PHƯỚC QUANG
HOÀNG GIỮ THUẬN (1941 – 2010)
Học tăng Phước Quang có thế danh là Hoàng Giữ Thuận Pháp danh Nguyên Hòa, tự Phước Quang, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1941 (Tân Tỵ) tại làng Bích Khê, ông sinh ra trong một gia đình bần nông – Thân phụ là cụ Hoàng Công (1916 – 1981) và thân mẫu cụ Đỗ Thị Cháu (1919 – 2012), vốn là gia đình có truyền thống theo Phật giáo, là cháu gọi Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh bằng cậu.
Tuổi thơ của ông nhiều gian truân, khi ấy ông sống trong vùng chiến tranh nên không được đi học, mãi đến năm 1957 khi ấy cố Hòa thượng Thích Thiện Minh về thăm nhà, ông mới ngỏ ý xin được theo thầy, được thầy đồng ý, ông khăn gói theo Hòa thượng vào Nha Trang và sau đó làm thị giả cho Hòa thượng một thời gian.
Khi vào Nha Trang ông được bố trí ăn ở tu tập tại Phật Học Viện Nha Trang và được Hòa thượng cho đi học văn hóa, do lớn tuổi ông được nhận vào học lớp 3 luôn, ông học rất giỏi cả văn hóa lẫn nghiên cứu phật học. Tuy nhiên do nhiều yếu tố khách quan ông chỉ học hết lớp đệ Nhị và thi tú tài bán phần.
Năm 1963, ông theo Hòa thượng tham gia các phong trào đấu tranh chống Ngô Đình Diệm và suốt những năm tiếp theo ông theo phong trào đấu tranh Phật giáo tại Nha Trang và TP. HCM.
Năm 1967 ông vào Sài Gòn và thọ Tỳ Kheo với cố Hòa thượng Thích Trí Thủ
Năm 1969, bị gọi nhập ngũ, ông được tham dự lớp huấn luyện sĩ quan tại Thủ Đức, sau khóa huấn luyện ông đạt loại ưu nên được chọn vùng để phục vụ quân ngũ. Được biết ông do còn nặng gánh với tổ tiên nên dù biết về Vùng 1 là nguy hiểm, nhưng ông quyết về với quê hương, trong thâm tâm ông là người lính trong chiến trận, sống chết khi nào không biết, nên ông chọn về với quê cha đất tổ để làm gương cho thế hệ mai sau.
Cũng do chướng duyên ông quyết định ra đời, trước khi nhập ngũ ông quyết định kết duyên với bà Trần Thị Hoa, bà là con gái Huế nhưng lúc đó bà là nhân viên của Hãng xì dầu Lá Bồ Đề của Phật học viện Nha Trang.
Ông bà hạ sanh được 4 người con, hai trai và hai gái. Hai người con trai là cặp song sinh tại Nha Trang – Khánh Hòa, nên sau này được đặt tên là Khánh và Hòa. Người con gái thứ 3 được sinh tại Quảng Nam và được đặt tên là Phương Nam. Đến năm 1980 ông sinh thêm người con gái út tại Làng Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nên được đặt tên là Phương Ái. Như vậy 4 người con của ông là:
1. Hoàng Kim Khánh 1970
2. Hoàng Kim Hòa 1970
3. Hoàng Thị Phương Nam 1973
4. Hoàng Thị Phương Ái 1980
Năm 1971, sau khi kết thúc khóa huấn luyện sĩ quan ông đạt loại ưu nên được chọn Vùng, vì thế ông chọn về Vùng 1 để được gần với tổ tiên, khi ấy ông mang quân hàm Chuẩn úy.
Cuối năm 1974 ông được Thiếu tá Lê Khoái bổ nhiệm vị trí Quận trưởng Quận Triệu Phong, lúc này ông đang mang quân hàm Trung úy nhưng chưa nhậm chức thì đất nước giải phóng, ông bị bắt đi cải tạo tại Cồn Tiên, tỉnh Quảng Trị.
Năm 1977, do ý thức chính trị và thể chế thay đổi ông đã cố gắng cải tạo tốt nên cuối năm này ông được phóng thích.
Trở về với đời sống người dân ông là người có trình độ tại địa phương nên được điều dạy các lớp Bình dân Học vụ cho các đối tượng là người nông dân(lớn tuổi) mù chữ (Thất học), trong đó có cả lãnh đạo các hợp tác xã, cũng trong thời gian này ông phải làm các công việc hết sức nhạy cảm: đó là “Văn hóa xã”, ông thường viết những biểu ngữ tuyên truyền, thư ký cho các cuộc họp của chính quyền địa phương thời bấy giờ.
Công việc là thế nhưng ông bị sự kỳ thị bởi người dân bản địa cùng với sự gò ép của chính quyền địa phương nên ông tỏ ra nãn chí. Chính vì thế đến cuối năm 1980, sau khi hạ sanh cô gái út, ông quyết định di cư vào Nam, lập nghiệp
Cuối tháng 12 năm 1980, sau khi ghé Nha Trang ông gặp một số bạn bè là Tăng sinh cũ như Phước Định – Dương Văn Chỉnh, Tánh Dung – Lê Thừa Ánh, nên anh em đã đưa nhau vào lập nghiệp tại mãnh đất Xuân Trường, Xuân Lộc, Đồng Nai ngày nay.
Năm 1982, mặc dù đây là thời điểm khó khăn về hoạt động tôn giáo nhưng ông đã cùng một số anh em như Phước Định – Dương Văn Chỉnh, Tâm Đề - Phan Quang Lớn, Tâm Hiên – Hoàng Công Cổn, Tâm Việt – Phan Thiên Vũ, … thành lập Khuôn hội Khánh Hạnh và Gia đình Phật tử Khánh Hạnh – lúc bấy giờ, tinh thần Đạo Phật trong ông và các anh em dâng cao, hằng đêm lời kinh tiếng mõ vang rền khắp thôn xóm làm cho cuộc sống thêm phần sinh động
Năm 1984, sau khi ôn Trí Thủ viên tịch, sinh hoạt tôn giáo lúc này đang gặp khó khăn về mặt chính quyền, sinh hoạt của GĐPT và khuôn hội cũng giảm, tinh thần của ông cũng suy sụp.
Năm 1986, khuôn hội và GĐPT Khánh Hạnh tái sinh hoạt mà ông là người khởi xướng trong ngày giỗ của cụ Hoàng Công – thân sinh của ông và được anh em hưởng ứng tích cực, thời gian này ông tham gia và nắm giữ nhiều trọng trách trong giáo hội.
Năm 2008, do nhân sự thiếu thốn ông kiêm luôn vị trí Gia trưởng GĐPT Khánh Hạnh cho đến năm 2010.
Năm 2010, sau thời gian lâm trọng bịnh, ông đã từ trần lúc 19h30 ngày 20/08/2010 tức ngày 11 tháng 7 năm Canh dần, hiện nay mộ phần của ông được an táng tại Nghĩa trang xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
Sinh thời ông có nhiều đóng góp cho xã hội địa phương, tham gia xây dựng, trùng tu nhiều Chùa chiền, Tịnh thất, Niệm Phật đường đặc biệt ông đem tư tưởng Phật giáo, nhân sinh quan Phật giáo vào đời sống xã hội địa phương một cách tích cực và có chiều sâu làm cho đời sống tâm linh và xã hội tại địa phương bình an, ôn hòa và nhân văn.
Vào thập niên 1980, 1990, kinh tế rất khó khăn, nhưng với trải nghiệm cuộc đời ông đã đặc biệt quan tâm đến việc học của các con. Hiện nay, 4 anh em đã yên bề gia thất và cuộc sống ổn định
Ông Hoàng Kim Khánh hiện nay cư ngụ tại thị trấn Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Cử nhân ngành Tài chính – Kế toán, hiện công tác trong lĩnh vực xây dựng.
Ông Hoàng Kim Hòa hiện nay cư ngụ tại tổ 23, khu phố 4, phường Trảng Dài, TP. Biên Hòa, Đồng Nai. Cử nhân Khoa học – ngành tiếng Anh, hiện giảng dạy tại Biên Hòa.
Bà Hoàng Thị Phương Nam hiện cư ngụ tại xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Cử Nhân Hóa, hiện là giáo viên giảng dạy tại Bình Châu.
Bà Hoàng Thị Phương Ái hiện cư ngụ cùng thân mẫu tại ấp Trung Lương, xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, tốt nghiệp Trung cấp Mầm non, hiện đang giảng dạy tại Xuân Lộc – Đồng Nai.
Cuối đời của ông không được thanh thản lắm, nhưng ông cũng đã có nhiều thời gian hơn để sinh hoạt các đoàn thể như tham gia hầu hết các tổ chức Phật giáo, Hội trưởng hội người cao tuổi của xã, … điều quan trọng nữa là con cái đều ý thức được việc học, việc làm và yên bề gia thất đã làm cho ông bớt lo toan hơn trước khi xả bỏ thân trung ấm ở thế tục.
Thứ Nam
Nguyên Nghĩa – Hoàng Kim Hòa